Tại Ấn Độ, một chương trình nghiên cứu chọn giống tiêu đã được thực hiện từ năm 1953 đến nay và đã phóng thích nhiều giống tiêu. Hiện nay có tới 75 giống tiêu đang được trồng ở Ấn Độ, Karimunda là giống phổ biến nhất. Ngoài các giống chọn lọc truyền thống thì một số giống cải tiến có năng suất cao từ các chương trình lai tạo và chọn lọc giống cũng đang được trồng trong sản xuất. Trạm Nghiên cứu Hồ tiêu Panniyur ở Kerala đã phóng thích ra giống tiêu lai Panniyur-1 nổi tiếng cách đây trên ba thập niên. Pournami là một giống tuyển chọn chống chịu với tuyến trùng sưng rễ Meloidogyne (Peper Production guide, 2005).
Ở Malaysia, các giống Kuching (Bangka), Aricottanadan, Kumbakhodi, và Kutharavally A.R.S là những giống tốt đã được phóng thích ra sản xuất (De Ward, 1969). Giống Kuching được trồng phổ biến ở Sarawak và Johore, giống sinh trưởng khỏe, có năng suất cao, tuy vậy giống này rất nhạy cảm với các bệnh chính, đặc biệt là bệnh héo chết nhanh do Phytophthora. caspici, bệnh đen quả và bệnh xoăn lùn do virus (Anandan, 2005). Năm 1988 và năm 1991, Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Semongok đã phóng thích thêm được 2 giống là Semongok perak và Semongok emas. Semongk perak tuy có phẩm chất thơm ngon, năng suất cao trong những năm đầu kinh doanh nhưng kém bền vững sau vụ thứ 3 vì dễ nhiễm bệnh héo chết nhanh (Paulus and Wong, 2000).
Ở Indonesia, các giống tiêu truyền thống là Bulok, Belantung, Jambi, Lampung Daun Lebar, Bangka, Kerinci và Lampung Daun Kecil. Các kết quả chọn tạo giống cho thấy mặc dù không có giống nào kháng được bệnh rễ nhưng một số giống có khả năng chống chịu đã chọn tạo được có thể kể đến là: Natar 1, Pelating 2, Choenuk và Lampung Daun Kecil. Giống Natar 1 vừa chống chịu được nấm Phytophthora vừa chống chịu được sâu đục thân là 1 loài sâu hại tiêu quan trọng ở vùng này, tuy vậy có năng suất không cao. Các giống Pelating 1, Pelating 2 và Lampung Daun Kecil là các giống có năng suất cao nhưng Pelating1 rất dễ nhiễm bệnh rễ. Choenuk là giống có năng suất trung bình (Paulus and Wong, 2000).
Bên cạnh các nghiên cứu về chọn tạo giống, các biện pháp kỹ thuật canh tác phù hợp cho cây hồ tiêu cũng đã được quan tâm nghiên cứu và đạt được những kết quả nhất định.
Ở Ấn Độ, Indonesia cây tiêu thường được cho leo lên các loại cây che bóng trong vườn cà phê như vông, anh đào giả, keo dậu, lồng mức, mít, cóc rừng, sồi lá bạc…Tại Indonesia, tiêu được cho leo lên cây gòn và các loại cây ăn trái khác. Việc bóng rợp trong vườn tiêu có cần thiết cho tiêu hay không đã được bàn đến từ lâu. Tại Indonesia, nhiều diện tích tiêu trồng thuần với trụ chết không có bóng rợp cho năng suất cao. Tuy nhiên tại Ấn Độ và Sri Lanca kết quả nghiên cứu lại cho thấy rằng che bóng ở một mức độ nhất định là cần thiết cho sinh trưởng và phát triển của cây tiêu. P. Rethinam (2004) cho rằng cây hồ tiêu rất nhạy cảm với chế độ chiếu sáng, trên cùng một cây, ở các phần cây được chiếu sáng đầy đủ mang nhiều hoa quả hơn các phần bị che bóng rợp. Ở những nơi tiêu trồng trong điều kiện được che bóng rợp thường xuyên năng suất rất thấp. Tuy vậy khi cây tiêu được trồng dưới ánh sáng trực tiếp không che bóng thường bị rối loạn sinh lý, ngay cả khi điều kiện độ ẩm đất hoàn toàn thuận lợi. Dùng cây trụ sống có thể tận dụng một phần tán cây tạo bóng rợp cần thiết cho vườn tiêu, giảm cường độ chiếu sáng ban ngày, điều hòa nhiệt ẩm vườn cây do đó hạn chế được một phần sự bốc thoát hơi nước.
Các nghiên cứu về phân bón cho cây tiêu đều thống nhất cho rằng phân hữu cơ là loại phân cơ bản không thể thiếu được trong nghề trồng tiêu. Theo Thomas Dierolf, Thomas Fairhurst and Ernst Mutert (2001) lượng phân bón cân bằng cho 1 ha tiêu có năng suất 3 tấn/ha là 400 N, 200 P2O5, 500 K2O và 10 tấn phân hữu cơ và một lượng vôi nhất định. Zaubin và cộng sự với thí nghiệm trong chậu cho thấy một tỷ lệ thấp N/K đã làm gia tăng sức chống chịu của giống Belangtung với bệnh hại rễ tiêu. Các kết quả nghiên cứu gần đây của Robber Zaubin và Dyah Manohama ở Lampung (2004) cũng cho thấy một tỷ lệ cao phân kali so với phân đạm có ưu thế hơn giúp cây khỏe mạnh và chống chịu được bệnh tật, do vậy các tác giả này đã đề xuất bón 1600g phân NPKMg hỗn hợp (12 – 12 – 24 – 2) cho 1 gốc tiêu /năm.
Nhiều quốc gia trên thế giới trồng tiêu không tưới nước vì có lượng mưa phân bố tương đối đồng đều trong năm, hơn nữa tập quán trồng tiêu dưới các loại cây thân gỗ rậm rạp dẫn đến năng suất thấp và không có nhu cầu về tưới nước cho tiêu. Ở Sri Lanca chỉ có 1% nông dân trồng tiêu tưới nước, do chi phí tưới nước cao và hiệu quả kinh tế mang lại không nhiều khiến nông dân vùng này không tưới cho tiêu. Tuy vậy ở Ấn Độ, thời kỳ khô hạn dài trong mùa hè là yếu tố hạn chế năng suất hồ tiêu. Một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Cây gia vị Ấn Độ đã kết luận tưới nhỏ giọt với mức tưới 7 – 10lít/trụ/ngày trong suốt mùa hè đã làm năng suất tiêu tăng 200%. Ở Thái Lan, tiêu cũng là một loại cây trồng có tưới.